Truy cập nội dung luôn

Tịnh Thiện tổ chức buổi sinh hoạt dưới cờ đầu tháng 04/2024.

01/04/2024 09:13    289

Ngày 01/4/2024, Ban Chỉ huy quân sự xã Tịnh Thiện chủ trì tổ chức buổi sinh hoạt dưới cờ đầu tháng 04/2024.

         Dự Lễ chào cờ có đồng chí Lê Minh Hưng – Thành ủy viên, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã; đồng chí: Phan Thị Đức - Ủy viên Ban Thường vụ, Phó bí thư Thường trực Đảng ủy, đồng chí Văn Nguyên - Ủy viên Ban Thường vụ, Phó bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã; đồng chí Võ Thị Tuyết – Đảng ủy viên, Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam, đồng chí Trương Quang sinh - Đảng ủy viên, Trưởng ban Chỉ huy quân sự xã, cùng sự có mặt của các đồng chí là Ủy viên Ban Chấp hành Đảng ủy, chi ủy các chi bộ trực thuộc Đảng ủy và toàn thể cán bộ, công chức, chiến sỹ công an, người hoạt động không chuyên trách, Ban Thường vụ các tổ chức chính trị - xã hội, Ban Chấp hành hội LHPN xã, các chiến sỹ dân quân tự vệ, lãnh đạo các Hội đặc thù thuộc UBND xã và đại diện lãnh đạo các trường học trên địa bàn xã; Trạm y tế xã.

 

       Tại buổi sinh hoạt dưới cờ, đồng chí Trương Quang sinh - Đảng ủy viên, Trưởng ban Chỉ huy quân sự xã đã báo cáo chủ điểm về “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” với nội dung: “tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng dân quân du kích (DQTV) và chiến tranh du kích”.

 

          Nội dung báo cáo:

          Những tư tưởng Cách mạng và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một di sản vô giá mà Người để lại cho Đảng, Nhân dân và quân đội ta, trong đó tư tưởng về xây dựng lực lượng dân quân du kích (DQDK) và chiến tranh du kích (CTDK) là một trong những tư tưởng đã thâm nhập sâu sắc trong quần chúng và trở thành sức mạnh vật chất to lớn, đưa nhân dân ta đi đến thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh chống lại những tên đế quốc xâm lược lớn mạnh. 

          1. Du kích là cách đánh giặc của dân tộc bị áp bức chống đế quốc 

          Ngay từ khi đất nước ta bị chủ nghĩa thực dân Pháp thống trị, một vấn đề trọng đại được đặt ra cho dân tộc ta là làm thế nào một nước thuộc địa nửa phong kiến, đất không rộng, người không đông, kinh tế nghèo nàn, trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu, không có quân đội và vũ khí hiện đại, lại có thể đánh thắng được kẻ thù đế quốc hung bạo, có tiềm lực kinh tế và quân sự lớn mạnh, dựa trên một nền công nghiệp phát triển cao. 

          Xuất phát từ lòng yêu nước thương dân, quyết chí giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào, tiếp thu và phát triển lý luận cách mạng của thời đại, Hồ Chí Minh thấy được sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam. Người khẳng định: "chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước" và "phát động chủ nghĩa dân tộc" là "một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời". Người đặt niềm tin ở truyền thống yêu nước nồng nàn của dân tộc, "đó là một truyền thống quý báu của ta, từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước". "Địch chiếm trời, địch chiếm đất, nhưng chúng không làm sao chiếm được lòng nồng nàn yêu nước của Nhân dân ta". Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin coi sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Hồ Chí Minh tin tưởng ở sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận của quần chúng nhân dân. Sức mạnh của toàn dân vũ trang là một ưu thế tuyệt đối của chiến tranh nhân dân để đánh thắng chiến tranh xâm lược của mọi kẻ thù. Người khẳng định "Cách mạng là việc chung của cả dân chúng". "Dân khí mạnh thì quân lính nào, định: súng ống nào cũng không chống lại nổi". 

            Hồ Chí Minh coi bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng, vì thế phải giác ngộ và tổ chức quần chúng, dùng bạo lực cách mạng của quần chúng đập tan chính quyền đế quốc tay sai, giành chính quyền về tay Nhân dân. Quan điểm khởi nghĩa và chiến tranh của Hồ Chí Minh là khởi nghĩa toàn dân, chiến tranh nhân dân. Năm 1924, trong một lần nói chuyện với hoạ sĩ Thụy Điển Êrich Giôhanxơn về việc giải phóng Việt Nam, Người nói "bằng cách khởi nghĩa vũ trang trong cả nước". "Người nói chuyện rất say sưa về tổ chức càng nhiều càng tốt những nhóm vũ trang của người nông dân và công nhân tại Việt Nam. Đó là những tế bào có thể hợp thành hạt nhân của cuộc khởi nghĩa mà Người tin chắc chắn sẽ nổ ra. 

          Tháng 1/1944 Hồ Chí Minh chỉ đạo, hướng dẫn một số đồng chí biên soạn bài giảng để đào tạo cán bộ, về sau in thành tác phẩm Con đường giải phóng. Tác phẩm chỉ rõ "du kích là một cách chiến tranh của dân chúng dùng khí giới ít và kém chống với đế quốc có khí giới tốt và nhiều". CTDK là chiến tranh của nhân dân. Trong Bài ca du kích Người viết: Già nào, Trẻ nào. Lính nào, Da nào, Đàn ông nào, Đàn bà nào ! Kẻ có súng dùng súng, Kẻ có dao dùng dao, Kẻ có cuốc dùng cuốc, Kẻ có cào dùng cào, thấy Tây cứ chém phứa Thấy Nhật cứ chặt nhào... 

          Đó là tư tưởng động viên toàn dân, vũ trang toàn dân. Già trẻ, gái trai, dân lính đều đánh giặc. "Chiến tranh ngày nay phức tạp và hết sức khó khăn, không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó không thể nào thắng được". Hồ Chí Minh hết sức coi trọng vai trò của con người cầm vũ khí: "Không thể cậy vũ khí mà có thể quyết định được thắng lợi. Phải xem những người cầm vũ khí có phải là những chiến sĩ hăng hái đánh trận không". Tự đặt câu hỏi "lý do nào đã sinh ra chiến tranh du kích", Hồ Chí Minh trả lời: "Trước hết là do chủ nghĩa yêu nước, tình cảm đối với Tổ quốc. Sau đó là lòng căm thù mạnh mẽ đối với bọn xâm lược dã man... Nhìn thấy cảnh nhà bị đốt cháy, ruộng vườn bị phá hoại, vợ bị hãm hiếp, cha mẹ bị giết chết, các con bị thiêu sống... Cảnh tượng đó không phải đã dồn nông dân Việt Nam tới một nỗi thất vọng tiêu cực, mà một ham muốn trả thù cho những người thân, tới lòng can đảm lẫm liệt trong chiến đấu. 

       CTDK là một phương thức để phát động toàn dân chống quân xâm lược "Du kích tổ chức khéo thì toàn dân gái trai già trẻ, sĩ nông công thương, ai cũng có thể tham gia. Người thì lo đánh giặc, người thì lo tiếp tế, tình báo, liên lạc, tuyên truyền mọi người đều có dịp phụng sự Tổ quốc". 

         Lực lượng toàn dân được tổ chức và giác ngộ sẽ là sức mạnh to lớn đánh thắng kẻ thù xâm lược Toàn dân khởi nghĩa, toàn dân nổi dậy là nét đặc sắc của Cách mạng tháng Tám dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chí Minh, thể hiện thiên tài quân sự Hồ Chí Minh. 

        Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, khi ta đã có lực lượng quân chính quy hơn 8 vạn người và có khả năng đánh vận động chiến, Hồ Chí Minh vẫn hết sức coi trọng CTDK. Đó là một trong hai hình thái cơ bản của chiến tranh nhân dân và giữ địa vị rất quan trọng trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta. 

          CTDK là biểu hiện sinh động và cụ thể của việc phát động toàn dân đánh giặc. Trong bài Chiến lược của quân ta và của quân Pháp (13-12- 1946), Người viết: "Về phương pháp tác chiến, chúng ta áp dụng vận động chiến song song với du kích chiến. Vận động chiến có mục đích trừ diệt một số lớn địch quân. Còn du kích chiến là huy động dân quân ở địa phương vừa quấy rối, vừa làm hao mòn lực lượng của chúng... Để thực hiện du kích chiến, chúng ta tổ chức ra đội cảm tử, đội phá hoại, đội đánh úp, đội đánh mai phục, đội cướp lương thực, súng đạn, đội trinh sát. Kế hoạch tiêu thổ vườn không nhà trống, kế hoạch bất hợp tác phải được đem áp dụng một cách triệt để. Trong thành phố, ngoài những hầm hố, những chướng ngại vật, chúng ta phải biến mỗi nhà thành một ỗ kháng chiến, phải đo đường hầm thông từ phố nọ sang phố kia. Trên các ngả đường quan lộ đã đành đắp nhiều ụ đất làm chướng ngại vật, nhưng trên mạt đường còn phải đặt nhiều địa lôi, nhất là ở những chỗ có cầu cống... Chúng ta phải dùng đủ mọi phương pháp để cản trở quân địch, địch đến một chỗ nào cũng không thể tiến quân được. Để kháng chiến lâu dài, mỗi làng ngay từ bây giờ phải biến ra một thành luỹ kháng chiến" Hồ Chí Minh chủ trương phát động toàn dân kháng chiến toàn diện, đánh giặc bằng mọi vũ khí có trong tay. Khi nói chuyện với các đại biểu thân sĩ, trí thức, phú hào tỉnh Thanh Hoá (2 - 1947) Người chỉ rõ: "Nó dùng vũ khí tối tân thì ta đánh du kích"(14). Sau khi giặc Pháp tiến công ra ngoài Hà Nội, Hồ Chí Minh viết thư gửi đồng bảo toàn quốc (5 - 3 - 1947): "Địch càng rải ra nhiều nơi thì lực lượng địch càng mỏng mảnh. Ta càng sẵn cơ hội mà đánh du kích để tiêu diệt nó dân dân, để đi đến thắng lợi cuối cùng. 

Trong quá trình chỉ đạo kháng chiến, Hồ Chí Minh luôn quan tâm phát triển CTDK ở vùng sau lưng địch, biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta, thành những khu du kích và căn cứ du kích: "Chiến trường sau lưng địch phải mở rộng du kích chiến để tiêu diệt và tiêu hao những bộ phận nhỏ của địch, để chống địch càn quét bảo vệ tính mạng tài sản cho dân để khuấy rối, phá hoại, kiềm chế địch, tuyên truyền và giáo dục quần chúng những vùng đó, thu hẹp nguồn nguỵ binh của địch, mở rộng vùng du kích và căn cứ du kích của ta, đặng thành lập và củng cố những căn cứ kháng chiến sau lưng địch. Hồ Chí Minh khẳng định: "Được chức tốt, chiến tranh du kích là một sức mạnh không thể đánh bại chống bọn xâm lược nước ngoài. 

          CTDK có tác dụng chiến lược vô cùng to lớn trong việc tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận nhỏ quân địch, góp gió thành bão, gây cho địch những tổn thất và khó khăn nghiêm trọng; góp phần kiềm chế, phân tán lực lượng địch, làm địch bị bao vây, chia cắt ở khắp nơi, tạo ra thế chiến lược có lợi cho ta. "Cùng lúc bị tấn công ở sau lưng bởi chiến tranh du kích và ở ngoài mặt trận bởi quân đội nhân dân, thế là bọn xâm lược Pháp sẽ bị đánh bại. 

       Phát động CTDK là một phương thức đấu tranh có hiệu lực to lớn để động viên, tổ chức và rèn luyện quần chúng nhân dân trở thành những chiến sĩ kiên cường đánh giặc, giữ làng, bảo vệ đất nước. 

       Địa vị và tác dụng của CTDK vô cùng to lớn. Đó là phương thức của quần chúng cách mạng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, để thực hành khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền cơ sở về tay nhân dân. Đó cũng là phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân, kết hợp CTDK với chiến tranh chính quy để đánh thắng chiến tranh xâm lược của đế quốc. 

        2. Dân quân du kích là một lực lượng chiến lược 

        DQDK là lượng đông đảo nhất được vũ trang và có tổ chức ở cơ sở, không thoát ly sản xuất. Đó là lực lượng bám đất, bám dân, vừa đánh giặc, vừa cày ruộng, vừa sản xuất, vừa chiến đấu, vừa là quân, vừa là dân. Đó là lực lượng hùng hậu để bổ sung cho bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương. 

        Tổ chức của du kích rất linh hoạt, rộng rãi. "ở các nơi gần thành phố, họ là những người công nhân; ở vùng nông thôn, họ là những người nông dân. Nhưng cũng có cả những thầy giáo, sinh viên, thương nhân và những người yêu nước khác". 

         Ngoài những đơn vị gồm những người hăng hái, khỏe mạnh, còn có cả các đội "bạch đầu quân", nữ du kích, thiếu nhi du kích. "Các chiến sỹ du kích đều tin tưởng vào lực lượng to lớn của mình và có một niềm tin không lay chuyển vào thắng lợi cuối cùng. Họ không sợ các vũ khí chiến tranh hiện đại...". Đó là một trong ba thứ quân của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, làm nòng cốt để phát động toàn dẫn đánh giặc. 

        Trong Chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (22 - 12 - 1944) Hồ Chí Minh nêu rõ "Vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân, cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, cho nên trong khi tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên, cần phải duy trì lực lượng vũ trang trong các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi phương diện. Chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc Hồ Chí Minh đề ra một trong những Công việc khẩn cấp bây giờ là "Tổ chức du kích khắp nơi, tăng gia sản xuất khắp nơi". 

          Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chí Minh, lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân của ta đã hình thành trong kháng chiến chống Pháp, giải quyết yêu cầu tác chiến phân tán và tập trung, vừa có lực lượng cơ động chiến lược, vừa có lực lượng tại chỗ rộng khắp, thường xuyên chiến đấu giam chân, phân tán lực lượng địch, tạo điều kiện cho bộ đội đánh những trận lớn. "Chúng ta có ba lực lượng quân sự: Vệ quốc quân, bộ đội địa phương và dân quân đu kích: Vệ quốc quân phải lo đánh trận để tiêu diệt địch. Bộ đội địa phương phải phụ trách những trận vừa vừa và phải chuẩn bị chiến trường sẵn sàng khi Vệ quốc quân đánh những trận to ở địa phương mình. Dân quân du kích là một lực lượng rộng rãi, khắp cả nước. Xã nào, thôn nào cũng có dân quân du kích. Nó như một tấm lưới rộng mênh mông, bao trùm cả nước. Hễ giặc Pháp và Việt gian bước chân đến đâu là mắc phải lưới đó ngay". 

         DQDK cùng với những vũ khí thô sơ làm cho CTDK có một sức mạnh tiềm tàng vô tận, tạo khả năng tiêu hao, tiêu diệt địch ở khắp mọi nơi. Trong Lời tựa viết cho bản dịch cuốn Tỉnh uỷ bí mật của nhà văn Phêđôrốp (của Liên Xô cũ) Hồ Chí Minh viết: "Du kích là một lực lượng cực kỳ to lớn trong chiến tranh giải phóng dân tộc. Sức du kích thật mạnh thì chiến tranh giải phóng nhất định thắng lợi. Tổ chức chặt chẽ và rộng khắp, trong vùng địch và xung quanh vùng địch, làng nào, huyện nào, tỉnh nào cũng có du kích thì nó trở thành một tấm lưới sắt, một thứ "thiên la, địa võng" mà địch không tài gì thoát ra được. Địch đi đến đâu cũng bị chặn đánh. Địch làm cái gì cũng bị phá hoại. Du kích làm cho địch có mắt cũng như mù, có tai cũng như điếc, có chân tay cũng như què. Một bộ phận địch thì bị du kích tỉa dần, tỉa mòn. Bộ phận địch còn sống sót thì ăn không yên, ngủ không yên, nghe gió thổi chim kêu cũng hoảng sợ, rồi cũng bi tiêu diệt nốt". ở vùng tự do DQDK là lực lượng xung kích trong lao động sản xuất, "thực hành tự cấp tự túc bằng cách thiết thực, bằng cách tăng gia sản xuất". DQDK là công cụ chuyên chính chủ yếu của chính quyền nhân dân ở cơ sở, đồng thời là lực lượng chiến đấu phối hợp và là nguồn bổ sung cho bộ đội. Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng những tổ chức dân quân du kích không thoát ly sản xuất. Những tổ chức dân quân du kích ấy chẳng những có thể phụ trách việc đàn áp bọn phản cách mạng, giữ gìn trị an trong làng xã bảo vệ lợi ích của quần chúng, đấu tranh với địch và phối hợp tác chiến với bộ đội chủ lực, mà lại có thể dùng để bổ sung bộ đội chủ lực". DQDK là một trong các lực lượng xây dựng và bảo vệ hậu phương của ta. Trong mọi cuộc chiến tranh, hậu phương vững mạnh là một nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi. Địch luôn phá hoại hậu phương ta bằng mọi thủ đoạn. Lực lượng vũ trang ta phải chiến đấu bảo vệ hậu phương. Nhưng bộ đội chủ lực cần tập trung tác chiến, không thể dàn ra khắp mọi nơi. Vì thế DQDK và bộ độ địa phương là lực lượng quan trọng để xây dựng và bảo vệ hậu phương một cách có hiệu quả. Với một lực lượng nhỏ bé, DQDK có thể góp thắng lợi nhỏ thành thắng lợi lớn, làm tê liệt bộ máy ngụy quyền, biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta, mở những cơ sở rộng lớn đến những khu vực tự do sau lưng địch. "Đội du kích trong lúc hoạt động đánh quân thù cần có vài nơi đứng chân làm cơ sở... đội du kích hoạt động phát triển nhiều thì chỗ cơ sở đầu tiên ấy có thể trở nên căn cứ địa vững vàng, nhất là sau khi đội du kích đuổi được giặc và thành lập chính quyền cách mạng trong địa phương"(26). "Khi du kích đã khá đông thì có căn cứ địa, nghĩa là một vùng khá rộng, hiểm trở, dân chúng tổ chức vững vàng, quân lính địch khó vào được. Du kích dùng nơi đó làm nơi đứng chắc chắn, tiến có thể đánh và phát triển được, lui có thể dứng và giữ gìn lực lượng được". 

        Căn cứ du kích là nơi đứng chân của lực lượng DQDK và lực lượng vũ trang nói chung, nhưng hoạt động CTDK lại là điều kiện để củng cố và mở rộng những căn cứ du kích trong vùng sau lưng địch. Trong báo cáo đọc tại Hội nghị lần thứ tư của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá 2) Hồ Chí Minh nêu rõ: "Chiến trường sau lưng địch phái mở rộng du kích chiến để tiêu diệt và tiêu hao những bộ phận nhỏ của địch; ... mở rộng vùng du kích và căn cứ du kích của ta, đặng thành lập những căn cứ du kích sau lưng địch. 

          Sức mạnh của toàn dân vũ trang là một ưu thế tuyệt đối của chiến tranh nhân dân để đánh bại chiến tranh xâm lược của nọi kẻ thù. DQDK giữ vai trò chiến lược quan trọng trong suốt quá trình đấu tranh vũ trang giành thắng lợi cho cách mạng, trong khởi nghĩa cũng như trong chiến tranh. Đúng như Hồ Chí Minh khẳng định: "Dân quân, tự vệ và du kích là một lực lượng của toàn dân tộc, là một bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận kẻ địch hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó thì địch nào cũng phải tan rã". 

           Xây dựng lực lượng DQDK và phát triển CTDK góp phần tạo lực, lập thế, đánh địch bằng mưu mẹo, lấy ít thắng nhiều, khi thì "tránh chỗ mạnh đánh chỗ yếu, náo phía đông đánh phía tây", khi thì "dĩ dật đãi lao", lấy sức mạnh của lực lượng bố trí tại chỗ thắng cái mệt mỏi của địch từ xa đến. "Du kích là cách đánh giặc của dân tộc bị áp bức chống đế quốc", nhưng du kích không chỉ là "du" (đi để đánh) mà phải kiên trì bám đất, bám dân, bám địch mà đánh. CTDK phải tiến lên chiến tranh chính quy và kết hợp CTDK với chiến tranh chính quy, thực hiện quan điểm chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh thắng một cách toàn diện. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng DQDK và chiến tranh du kích là một trong những nội dung quan trọng của khoa học và nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại mới. 

        Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc ngày nay đòi hỏi nhận dân ta phải tăng cường xây dựng kinh tế và củng cố quốc phòng. Để tập trung nguồn lực xây dựng kinh tế, chúng ta không thể duy trì quân đội thường trực quá đông, vì thế phải xây dựng lực lượng DQDK, dân quân tự vệ lớn mạnh làm nòng cốt của lực lượng hậu bị, sẵn sàng bổ sung cho quân thường trực khi cần thiết, đồng thời sẵn sàng làm nhiệm vụ tác chiến khi có chiến tranh. Đó là công cụ bảo vệ chính quyền nhân dân, giữ gìn trật tự an ninh, đóng vai trò xung kích trong lao động sản xuất trên từng địa bàn cơ sở. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng DQDK vẫn là vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong việc xây dựng một nền quốc phòng toàn dân hiện nay.