CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

Tỉnh Quảng Ngãi

A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 20/1/2025

(Chinhphu.vn) - Văn phòng Chính phủ vừa có Thông cáo báo chí chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 20/01/2025.

Nghị quyết phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật tháng 1 năm 2025

Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết số 14/NQ-CP phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật tháng 1 năm 2025. Phân cấp, phân quyền phải gắn với bảo đảm nguồn lực, đề cao trách nhiệm người đứng đầu

Về dự án Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi): Chính phủ đánh giá cao Bộ Nội vụ đã chủ động chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan hoàn thiện dự án Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi); thống nhất sự cần thiết xây dựng Luật nhằm tạo khuôn khổ pháp lý cho việc kiện toàn tổ chức bộ máy của Chính phủ, đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy hành chính nhà nước "tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả", đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong tình hình mới.

Bộ Nội vụ nghiên cứu, tiếp thu tối đa ý kiến các Thành viên Chính phủ, ý kiến các bộ, cơ quan liên quan, hoàn thiện hồ sơ dự án Luật.

Dự án Luật cần tập trung giải quyết hài hòa, hợp lý, hiệu quả, rõ ràng, cụ thể mối quan hệ giữa các cơ quan của Chính phủ bao gồm Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, các bộ, cơ quan ngang bộ; giữa các cơ quan của Chính phủ với các cơ quan ở Trung ương như Quốc hội, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao... và giữa các cơ quan của Chính phủ với chính quyền địa phương.

Rà soát, thể chế hóa đầy đủ các chủ trương của Đảng, hoàn thiện các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bảo đảm bao quát, toàn diện, chặt chẽ, thể hiện đúng vị trí, chức năng của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ được quy định tại Hiến pháp.

Phân cấp, phân quyền phải gắn với bảo đảm nguồn lực, đề cao trách nhiệm người đứng đầu, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện, trong đó lưu ý xác định rõ những nhiệm vụ, quyền hạn không phân cấp và những nhiệm vụ, quyền hạn cần đẩy mạnh phân cấp hoặc ủy quyền; đồng thời, quy định mang tính nguyên tắc về phân cấp, phân quyền, ủy quyền làm cơ sở pháp lý để Chính phủ quyết định phù hợp với điều kiện thực tiễn.

Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các bộ, cơ quan khẩn trương nghiên cứu, tiếp thu đầy đủ ý kiến Thành viên Chính phủ tại Phiên họp để chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi); đồng thời tiếp tục hoàn thiện hồ sơ dự án Luật và thực hiện trình tự, thủ tục theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật để gửi xin ý kiến Thành viên Chính phủ, bảo đảm chất lượng, tiến độ, kịp thời trình Quốc hội tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, tháng 02 năm 2025.

Khẩn trương hoàn thiện dự án Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi)

Đối với dự án Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi): Chính phủ đánh giá cao Bộ Nội vụ chủ động phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương trong thời gian ngắn đã xây dựng dự án Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi) điều chỉnh nhiều nội dung quan trọng về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương.

Chính phủ giao Bộ Nội vụ nghiên cứu, tiếp thu tối đa ý kiến các Thành viên Chính phủ, hoàn thiện dự án Luật theo hướng phân định rõ mô hình tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo. Đối với mô hình tổ chức chính quyền ở hải đảo, nghiên cứu quy định nguyên tắc, căn cứ tình hình thực tế Chính phủ quy định việc tổ chức chính quyền cấp xã phù hợp nhằm đáp ứng yêu cầu công tác quản lý và bảo đảm quốc phòng, an ninh trên địa bàn.

Việc quy định chức năng của các cấp chính quyền phải phù hợp với vị trí, vai trò của mỗi cấp được quy định trong Hiến pháp, thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật và thẩm quyền quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, qua đó tạo sự chủ động trong thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước, kịp thời giải quyết các vướng mắc, khó khăn phát sinh trên địa bàn.

Chính phủ giao Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, các bộ, cơ quan liên quan khẩn trương nghiên cứu, tiếp thu đầy đủ ý kiến Thành viên Chính phủ tại Phiên họp để chỉnh lý, hoàn thiện dự án Luật; đồng thời tiếp tục hoàn thiện hồ sơ dự án Luật và thực hiện trình tự, thủ tục theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật để gửi xin ý kiến Thành viên Chính phủ, bảo đảm chất lượng, tiến độ, kịp thời, kịp thời trình Quốc hội tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, tháng 02 năm 2025.

Đơn giản hóa, cắt giảm thủ tục hành chính để đẩy nhanh tiến độ xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Về dự án Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi): Chính phủ giao Bộ Tư pháp khẩn trương tổ chức lấy ý kiến các bộ, ngành, cơ quan liên quan; thẩm định dự án Luật để hoàn thiện hồ sơ dự án Luật theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật để gửi xin ý kiến Thành viên Chính phủ, bảo đảm chất lượng, tiến độ trình Quốc hội dự án Luật này tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, tháng 02 năm 2025, đáp ứng các yêu cầu sau:

Quán triệt tinh thần đổi mới, thông thoáng, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong công tác xây dựng pháp luật; quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải đơn giản, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ thực hiện; đơn giản hóa, cắt giảm thủ tục hành chính để đẩy nhanh tiến độ xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Tăng cường trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trình dự án luật trong quá trình Quốc hội xem xét, thông qua luật; không nhất thiết phải thông qua luật tại 02 kỳ họp. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; đề cao trách nhiệm người đứng đầu; tăng cường kiểm soát quyền lực, kiên quyết phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, cục bộ trong công tác xây dựng pháp luật.

Rà soát, xác định những quy định của Luật hiện hành còn phù hợp, được thực tiễn kiểm nghiệm, đa số đồng tình, ủng hộ, thực hiện có hiệu quả để kế thừa, quy định tại dự thảo Luật; những nội dung sửa đổi, bổ sung cần được thuyết minh, giải trình đầy đủ, rõ ràng, có số liệu, lập luận để bảo đảm tính thuyết phục; việc đề xuất chính sách mới cần được đánh giá tác động kỹ lưỡng, bảo đảm tính khả thi của quy định; tích cực tham khảo kinh nghiệm quốc tế, tham khảo có chọn lọc, phù hợp với đặc điểm thể chế chính trị và mô hình tổ chức bộ máy của Việt Nam.

Chính phủ giao Bộ Tư pháp tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các Bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan của Quốc hội trong quá trình hoàn thiện dự án Luật, bảo đảm sự đồng thuận cao về những nội dung cơ bản, quan trọng của dự án Luật. Phó Thủ tướng Lê Thành Long trực tiếp chỉ đạo Bộ Tư pháp và các bộ, cơ quan liên quan khẩn trương nghiên cứu, tiếp thu, hoàn thiện dự án Luật theo trình tự, thủ tục rút gọn, bảo đảm chất lượng, tiến độ theo quy định.

Thống nhất thông qua hồ sơ dự án Luật Tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc

Về dự án Luật Tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, Chính phủ đánh giá cao Bộ Quốc phòng đã chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan xây dựng dự án Luật Tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc và trình Chính phủ bảo đảm thời gian, tiến độ theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Chính phủ thống nhất thông qua hồ sơ dự án Luật do Bộ Quốc phòng chuẩn bị, giao Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ, các bộ, cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến của Thành viên Chính phủ tại Phiên họp này; hoàn thiện hồ sơ dự án Luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Số lượng các Phó Thủ tướng được xác định căn cứ vào tình hình thực tiễn của từng giai đoạn

Về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về thành lập một số bộ trên cơ sở tổ chức lại một số bộ của Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ cấu thành viên Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV:

Chính phủ thống nhất về sự cần thiết xây dựng, ban hành các Nghị quyết về thành lập một số bộ trên cơ sở tổ chức lại một số bộ của Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV và cơ cấu thành viên Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV.

Chính phủ giao Bộ Nội vụ tiếp tục hoàn thiện các dự thảo Nghị quyết theo hướng:

- Xác định tên gọi các bộ, cơ quan phù hợp với quyết định của cấp có thẩm quyền.

- Về cơ cấu thành viên Chính phủ, chỉ quy định mang tính nguyên tắc về Phó Thủ tướng Chính phủ, số lượng cụ thể các Phó Thủ tướng Chính phủ được xác định căn cứ vào tình hình thực tiễn của từng giai đoạn.

Tạo cơ chế "thông thoáng" để các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ban hành văn bản hướng dẫn tạm thời, kịp thời xử lý các vấn đề phát sinh chưa được dự liệu

Về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc xử lý một số nội dung liên quan đến sắp xếp tổ chức bộ máy, Chính phủ cơ bản thống nhất với đề xuất của Bộ Tư pháp về các chính sách do Bộ Tư pháp trình. Giao Bộ Tư pháp tiếp tục nghiên cứu, rà soát các giải pháp của từng chính sách, tiếp thu ý kiến của Thành viên Chính phủ để hoàn thiện.

Trong đó, chính sách 1: Ban hành quy định cụ thể để xử lý một số nội dung liên quan nhằm bảo đảm hoạt động của các cơ quan, xã hội, người dân, doanh nghiệp được liên tục, thông suốt, thuận lợi khi thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy: bổ sung nguyên tắc chung bảo đảm việc thực hiện các điều ước quốc tế, thoả thuận quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, tham gia không bị gián đoạn do quá trình sắp xếp tổ chức bộ máy. Bên cạnh đó, có quy định hướng dẫn để bảo đảm hoạt động của các cơ quan, xã hội, người dân, doanh nghiệp áp dụng thống nhất khi Nghị quyết có hiệu lực, như có ví dụ minh họa đối với các trường hợp xử lý các nội dung khi có sự thay đổi về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, người có thẩm quyền; có quy định yêu cầu cơ quan, tổ chức sau khi sắp xếp tổ chức bộ máy được sử dụng con dấu, thực hiện thủ tục đăng ký mẫu con dấu, thu hồi con dấu theo quy định của pháp luật.

Chính sách 2: Ban hành quy định về trách nhiệm, thời hạn rà soát, sửa đổi văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan liên quan để xử lý những vấn đề thuộc thẩm quyền ngoài các nội dung có thể thực hiện theo các quy định tại Nghị quyết, quy định về thẩm quyền, trách nhiệm xử lý nội dung khác phát sinh sau khi thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy mà chưa được quy định tại Nghị quyết và một số nội dung cần chuyển tiếp liên quan đến áp dụng và thực hiện pháp luật sau khi sắp xếp tổ chức bộ máy: tạo cơ chế "thông thoáng" để các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ban hành văn bản hướng dẫn tạm thời để kịp thời xử lý các vấn đề phát sinh chưa được dự liệu tại Nghị quyết và cho phép Chính phủ ban hành văn bản quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức các cơ quan thuộc thẩm quyền của Chính phủ khác với quy định tại luật, pháp lệnh hiện hành trong giai đoạn sau sắp xếp tổ chức bộ máy nhưng chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội.

Đồng thời, quy định cụ thể thời hạn trong vòng 03 tháng sau khi Nghị quyết được ban hành, các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm rà soát các quy định pháp luật có thay đổi sau khi sắp xếp tổ chức bộ máy phải ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung hoặc sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật bảo đảm phù hợp với tổ chức bộ máy đã được sắp xếp.

Giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan khẩn trương hoàn thiện hồ sơ xây dựng Nghị quyết, trình cấp có thẩm quyền cho phép áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn trong xây dựng, ban hành Nghị quyết theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm chất lượng, tiến độ, kịp thời trình Quốc hội tại kỳ họp bất thường lần thứ 9, tháng 2/2025.

Ban hành Nghị định về quản lý, sử dụng và khai thác tài sản kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa 

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 12/2025/NĐ-CP ngày 20/1/2025 quy định việc quản lý, sử dụng và khai thác tài sản kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa. Nguyên tắc quản lý, sử dụng và khai thác tài sản kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa

Nghị định quy định, việc quản lý, sử dụng và khai thác tài sản kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa phải tuân thủ các nguyên tắc quy định tại Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Đất đai và các nguyên tắc sau đây:

1. Tài sản kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa được thống kê, kế toán đầy đủ về hiện vật và giá trị; được thực hiện chế độ tính hao mòn tài sản và bảo trì công trình theo quy định của pháp luật.

2. Việc khai thác tài sản kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa theo phương thức cho thuê quyền khai thác tài sản, chuyển nhượng có thời hạn quyền khai thác tài sản được thực hiện đối với toàn bộ hoặc một phần của từng tài sản kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa. Trường hợp khai thác một phần của từng tài sản thì phải đảm bảo hoạt động giao thông đường thủy nội địa thông suốt, an toàn và không làm ảnh hưởng đến việc quản lý, sử dụng và khai thác đối với phần tài sản còn lại.

3. Khi quyết định giao, khai thác, xử lý tài sản kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa theo quy định tại Nghị định này, trường hợp tài sản có liên quan đến quốc phòng phải có ý kiến của Bộ Quốc phòng; trường hợp tài sản có liên quan đến an ninh quốc gia phải có ý kiến của Bộ Công an; trường hợp tài sản không liên quan đến quốc phòng, an ninh quốc gia thì Bộ Giao thông vận tải, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cơ quan quản lý đường thủy nội địa, cơ quan quản lý tài sản có trách nhiệm xác định tại hồ sơ đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền quyết định giao, khai thác, xử lý tài sản.

4- Trường hợp thực hiện khai thác, xử lý tài sản kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa theo quy định tại Nghị định này mà làm ảnh hưởng đến các tài sản kết cấu hạ tầng khác có liên quan thì phải có ý kiến của đối tượng được giao quản lý tài sản kết cấu hạ tầng có liên quan đó và phải có giải pháp, xác định rõ trách nhiệm để khắc phục.

5- Việc quản lý, sử dụng và khai thác đối với tài sản kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa được giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán theo quy định; mọi hành vi vi phạm pháp luật về quản lý, sử dụng và khai thác tài sản kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật.

6- Việc quản lý, sử dụng đất, mặt nước gắn với tài sản kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai, pháp luật về giao thông đường thủy nội địa và pháp luật khác có liên quan. Không thực hiện việc chuyển nhượng, bán, tặng cho, góp vốn, thế chấp quyền sử dụng đất gắn với công trình kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa, quyền sử dụng khu vực biển gắn với công trình kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa. Trường hợp thu hồi đất gắn với kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa theo quy định của pháp luật đất đai thì việc thu hồi đất gắn với tài sản, việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và việc xử lý đất, tài sản gắn liền với đất sau khi thu hồi thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai; không thực hiện theo quy định tại Nghị định này.

Việc sử dụng quỹ đất để tạo vốn phát triển tài sản kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai.

Tài sản kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa

Theo Nghị định, tài sản kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa là kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa theo quy định của pháp luật về giao thông đường thủy nội địa và vùng đất, vùng nước (nếu có) gắn với kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa.

Tài sản kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa có liên quan đến quốc phòng, an ninh quốc gia được xác định như sau:

Tài sản kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa có liên quan đến quốc phòng xác định theo quy định của pháp luật về quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự.

Tài sản kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa có liên quan đến an ninh quốc gia xác định theo quy định của pháp luật về bảo vệ công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia.

Phạm vi và hình thức giao tài sản kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa cho cơ quan quản lý tài sản

Nghị định quy định, tài sản kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa được giao cho cơ quan quản lý tài sản quy định tại khoản 3 Điều 2 Nghị định này như sau:

a) Cơ quan quản lý tài sản ở trung ương được giao quản lý đối với tài sản kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa thuộc trung ương quản lý.

b) Cơ quan quản lý tài sản ở địa phương (gồm: Cơ quan quản lý tài sản cấp tỉnh; cơ quan quản lý tài sản cấp huyện) được giao quản lý đối với tài sản kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa thuộc địa phương quản lý.

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định giao tài sản kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa thuộc địa phương quản lý cho cơ quan quản lý tài sản cấp tỉnh, cơ quan quản lý tài sản cấp huyện theo đề nghị của cơ quan quản lý đường thủy nội địa cấp tỉnh.

Việc giao tài sản kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa cho các cơ quan được thực hiện theo hình thức ghi tăng tài sản.

Sau khi được giao quản lý tài sản, cơ quan quản lý tài sản thực hiện việc quản lý, sử dụng và khai thác tài sản kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa được giao theo quy định tại Nghị định này và pháp luật có liên quan. Trường hợp cơ quan quản lý tài sản ở trung ương phân cấp hoặc ủy quyền hoặc giao cho các tổ chức hành chính trực thuộc (đối với tài sản thuộc trung ương quản lý), cơ quan quản lý đường thủy nội địa cấp tỉnh phân cấp hoặc ủy quyền hoặc giao cho các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc (đối với tài sản thuộc phạm vi quản lý của cơ quan quản lý đường thủy nội địa cấp tỉnh) thực hiện kế toán, quản lý hồ sơ, lưu trữ hồ sơ, bảo trì, kê khai, đăng nhập thông tin vào Cơ sở dữ liệu về tài sản kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa và các nội dung khác (nếu có) thì phải được Bộ Giao thông vận tải (đối với tài sản thuộc trung ương quản lý), Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (đối với tài sản thuộc địa phương quản lý) đồng ý bằng văn bản và phải có văn bản của cơ quan quản lý tài sản quy định rõ nội dung phân cấp hoặc ủy quyền hoặc giao và quy trình nội bộ để đảm bảo thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm theo quy định tại Nghị định này.

Việc giao tài sản kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa do Nhà nước đầu tư, quản lý cho cơ quan quản lý tài sản được áp dụng đối với tài sản kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa hiện có tại thời điểm Nghị định này có hiệu lực thi hành nhưng chưa có văn bản giao cho cơ quan quy định tại điểm a, điểm b nêu trên quản lý.

Đối với tài sản kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa là tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân được xử lý theo hình thức giao hoặc điều chuyển cho cơ quan quy định tại điểm a, điểm b nêu trên quản lý thì thẩm quyền, thủ tục giao, điều chuyển tài sản được thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý, xử lý tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân; không phải thực hiện lại thủ tục giao tài sản theo quy định tại Nghị định này.

Thẩm quyền quyết định giao tài sản kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa

Theo Nghị định quy định, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải quyết định giao đối với tài sản kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa thuộc phạm vi quản lý cho cơ quan quản lý tài sản ở trung ương.

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giao đối với tài sản kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa thuộc phạm vi quản lý cho cơ quan quản lý tài sản ở địa phương.

Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 20/1/2025.

Phân công cơ quan chủ trì soạn thảo, thời hạn trình các dự án luật, dự thảo nghị quyết được bổ sung vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2025 

Phó Thủ tướng Lê Thành Long vừa ký Quyết định số 154/QĐ-TTg phân công cơ quan chủ trì soạn thảo, thời hạn trình các dự án luật, dự thảo nghị quyết được bổ sung vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2025.

Theo Quyết định, Phó Thủ tướng phân công Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi), trình Chính phủ trong tháng 01/2025.

Bộ Tài chính chủ trì soạn thảo Nghị quyết về kéo dài thời hạn miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp được quy định tại Nghị quyết số 55/2010/QH12 của Quốc hội về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 28/2016/QH14 và Nghị quyết số 107/2020/QH14, trình Chính phủ trong tháng 2/2025.

Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân sẽ do Bộ Công an chủ trì soạn thảo, trình Chính phủ trong tháng 02/2025.

Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì soạn thảo Luật Báo chí (sửa đổi), trình Chính phủ trong tháng 2/2025.

Bộ trưởng các bộ chủ trì soạn thảo các dự án luật, dự thảo nghị quyết được bổ sung vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2025 trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng các dự án luật, dự thảo nghị quyết theo đúng trình tự, thủ tục quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; thực hiện rà soát đầy đủ các văn bản có liên quan để phát hiện, xử lý những vấn đề khác nhau giữa quy định trong văn bản quy phạm pháp luật hiện hành và văn bản dự kiến ban hành; tổ chức lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức, cá nhân, đặc biệt là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản; đảm bảo tuân thủ đúng và đầy đủ Quy định số 178-QĐ/TW ngày 27 tháng 6 năm 2024 của Bộ Chính trị quy định về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật; thực hiện nghiêm các giải pháp đã được giao tại các Nghị quyết của Chính phủ; hoàn thiện các hồ sơ dự án luật, dự thảo nghị quyết trình Chính phủ đúng thời hạn, tiến độ đã được phân công theo Quyết định này và chịu trách nhiệm về nội dung, chất lượng của dự án luật, dự thảo nghị quyết.

Bộ Tư pháp có trách nhiệm thẩm định kịp thời, đúng tiến độ và nâng cao chất lượng thẩm định; chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ tăng cường công tác theo dõi, đôn đốc việc thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh và báo cáo Chính phủ về tiến độ thực hiện theo quy định.

Nghị quyết về dự án Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi) và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội quy định về xử lý một số vấn đề liên quan đến sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước

Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết số 15/NQ-CP ngày 20/1/2025 về dự án Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi) và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội quy định về xử lý một số vấn đề liên quan đến sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước.

Về dự án Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi), Nghị quyết nêu rõ: Chính phủ cơ bản thống nhất nội dung dự thảo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi) do Bộ Tư pháp trình tại Tờ trình số 10/TTr-BTP ngày 17 tháng 01 năm 2025. Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, các bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu, tiếp thu ý kiến Thành viên Chính phủ, khẩn trương hoàn thiện hồ sơ dự án Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi), trong đó lưu ý thể chế hóa đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng trong công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật, ý kiến kết luận của Bộ Chính trị và các yêu cầu, quan điểm chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong quá trình nghiên cứu, sửa đổi Luật này.

Quán triệt tinh thần đổi mới, thông thoáng, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong công tác xây dựng pháp luật; quy định đầy đủ, toàn diện, bao quát các vấn đề có liên quan, không tạo ra khoảng trống pháp lý hoặc xung đột pháp luật; tăng cường phân cấp, phân quyền, nhất là cho địa phương; xóa bỏ cơ chế "xin - cho", không bao biện, làm thay; quy trình phải đơn giản, ngắn gọn, giảm thủ tục hành chính để đẩy nhanh tiến độ xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; tăng cường trách nhiệm giải trình, đề xuất của các cơ quan, tổ chức trình dự án luật trước khi Quốc hội biểu quyết thông qua; tăng cường xem xét, thông qua luật trong một kỳ họp; kiên quyết phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, lợi ích nhóm, cục bộ trong công tác xây dựng pháp luật.

Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp khi sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước

Về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội quy định về xử lý một số vấn đề liên quan đến sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước, Chính phủ cơ bản thống nhất với tên gọi của dự thảo Nghị quyết và 03 Chính sách do Bộ Tư pháp trình tại Tờ trình số 06/TTr-BTP ngày 12 tháng 01 năm 2025 trên cơ sở tiếp thu ý kiến Thành viên Chính phủ và Nghị quyết số 14/NQ-CP ngày 18 tháng 01 năm 2025 của Chính phủ về Phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật tháng 01 năm 2025, cụ thể:

Chính sách 1: Xử lý những vấn đề chung, có tính nguyên tắc nhằm bảo đảm hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp khi sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước.

Chính sách 2: Xử lý các vấn đề liên quan đến thẩm quyền nội dung của một số chủ thể, tạo cơ sở pháp lý cho các chủ thể này được quyền quy định khác luật của Quốc hội, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và trình tự, thủ tục giải quyết thủ tục hành chính của cơ quan, đơn vị và thẩm quyền quy định các nội dung trên.

Chính sách 3: Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm xử lý đối với các vấn đề khác phát sinh sau khi các cơ quan, tổ chức, đơn vị thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy nhưng chưa dự liệu được hết trong Nghị quyết nhằm không làm gián đoạn hoạt động bình thường của bộ máy nhà nước, người dân, doanh nghiệp và việc tiếp tục rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Trên cơ sở thể chế hóa 03 nội dung Chính sách, Chính phủ cơ bản thống nhất dự thảo Nghị quyết của Quốc hội quy định về xử lý một số vấn đề liên quan đến sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước do Bộ Tư pháp trình tại Tờ trình số 07/TTr- BTP ngày 13 tháng 01 năm 2025. Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, các bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu, tiếp thu ý kiến Thành viên Chính phủ, khẩn trương hoàn thiện hồ sơ dự thảo Nghị quyết, bảo đảm cơ sở pháp lý cho bộ máy nhà nước đi vào hoạt động thông suốt, không bị gián đoạn sau khi thực hiện sắp xếp, thực hiện đúng ý kiến kết luận của Bộ Chính trị và các yêu cầu, quan điểm chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong quá trình nghiên cứu, sửa đổi Nghị quyết này.

Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm về nội dung tiếp thu, hoàn thiện dự án Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội quy định về xử lý một số vấn đề liên quan đến sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của Quốc hội; chủ động báo cáo, giải trình trong quá trình thẩm tra, tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về dự án Luật, dự thảo Nghị quyết; báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về các nội dung giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật và dự thảo Nghị quyết theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Giao Văn phòng Chính phủ, Thanh tra Chính phủ tiếp nhận, phân loại, xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn phản ánh, kiến nghị có nội dung khiếu nại, tố cáo của cá nhân, tổ chức gửi Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Phó Thủ tướng Chính phủ 

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Quyết định số 193/QĐ-TTg ngày 20/1/2025 về việc giao Văn phòng Chính phủ, Thanh tra Chính phủ tiếp nhận, phân loại, xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn phản ánh, kiến nghị có nội dung khiếu nại, tố cáo của cá nhân, tổ chức gửi Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Phó Thủ tướng Chính phủ. 

 Theo Quyết định, Thủ tướng Chính phủ giao Văn phòng Chính phủ:

1- Tiếp nhận đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn phản ánh, kiến nghị có nội dung khiếu nại, tố cáo (sau đây gọi chung là đơn) của cá nhân, tổ chức gửi Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Phó Thủ tướng Chính phủ.

2- Phân loại, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, cho ý kiến đối với các loại đơn sau:

a- Đơn do lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các cơ quan của Quốc hội và của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Đoàn Đại biểu Quốc hội, Đại biểu Quốc hội, Văn phòng Trung ương Đảng và các Ban của Đảng ở Trung ương, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận chuyển đến.

b- Đơn do cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan đại diện lãnh sự, cơ quan đại diện của các tổ chức quốc tế tại Việt Nam chuyển đến.

c- Đơn có nội dung, tính chất phức tạp liên quan đến chính sách dân tộc, tôn giáo, an ninh, trật tự.

3. Chuyển Thanh tra Chính phủ (theo hình thức Phiếu chuyển đơn) các đơn không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 nêu trên để xem xét, phân loại, xử lý theo quy định của pháp luật.

Thủ tướng Chính phủ giao Thanh tra Chính phủ:

1. Tiếp nhận, phân loại, xử lý theo quy định của pháp luật đối với đơn gửi Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Phó Thủ tướng Chính phủ do Văn phòng Chính phủ chuyển đến theo quy định.

2. Thông báo kết quả xử lý đơn cho cá nhân, tổ chức theo quy địnhT

3. Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc giải quyết đơn theo thẩm quyền của cơ quan, tổ chức, cá nhân, định kỳ hàng quý tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

Quyết định này có hiệu lực từ ngày 20/1/2025 và thay thế Công văn số 115/TTg-V.I ngày 20 tháng 01 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân, tổ chức gửi Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng tuyến đường bộ ven biển tỉnh thái Bình (Dự án)

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà vừa ký Quyết định số 192/QĐ-TTg ngày 20/1/2025 điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng tuyến đường bộ ven biển tỉnh thái Bình (Dự án). 

Quyết định nêu rõ, điều chỉnh tổng mức đầu tư Dự án 4.837,889 tỷ đồng (trước đó, tại khoản 5 Điều 1 Quyết định số 348/QĐ-TTg quy định tổng mức đầu tư của Dự án là 3.872 tỷ đồng).

Đồng thời, điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn: Vốn ngân sách Trung ương 1.100 tỷ đồng; vốn ngân sách địa phương và các nguồn vốn huy động hợp pháp khác 2.649,857 tỷ đồng; vốn nhà đầu tư BOT 1.088,032 tỷ đồng (trước đó, tại khoản 6 Điều 1 Quyết định số 348/QĐ-TTg quy định vốn ngân sách Trung ương 1.100 tỷ đồng (đã bao gồm 10% dự phòng theo quy định của pháp luật); vốn ngân sách địa phương và các nguồn vốn huy động hợp pháp khác 1.593 tỷ đồng).

Bên cạnh đó, điều chỉnh thời gian vận hành, khai thác, thu phí hoàn vốn Dự án dự kiến 24 năm 08 tháng (trường hợp tuyến đường bộ cao tốc Ninh Bình - Hải Phòng (CT.08) đưa vào khai thác, sử dụng ảnh hưởng đến doanh thu, phương án tài chính của Dự án thì Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình, nhà đầu tư và các bên có liên quan thực hiện đàm phán trên nguyên tắc đảm bảo hài hòa lợi ích các bên theo đúng quy định của pháp luật hiện hành và hợp đồng BOT đã ký).

(Trước đó, tại khoản 7 Điều 1 Quyết định số 348/QĐ-TTg quy định: Nhà đầu tư xây dựng trạm thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ để hoàn vốn đối với Phần vốn của Nhà đầu tư đã đầu tư xây dựng Dự án theo đúng quy định của pháp luật; thời gian dự kiến thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ hoàn vốn Dự án 23 năm 3 tháng (từ năm 2022 đến năm 2045). Thời gian chính thức sẽ được xác định thông qua đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư).

Điều chỉnh thời gian thực hiện Dự án tại khoản 9 Điều 1 Quyết định số 348/QĐ-TTg. Theo đó thời gian đầu tư xây dựng từ năm 2018 đến năm 2025 thay cho mốc thời gian từ năm 2018 đến năm 2021 như quy định cũ.

Các nội dung khác giữ nguyên theo Quyết định số 348/QĐ-TTg ngày 28 tháng 3 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ.

Bảo đảm cân đối, bố trí đầy đủ, kịp thời vốn ngân sách tỉnh để triển khai Dự án theo đúng tiến độ

Phó Thủ tướng giao Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình chịu trách nhiệm toàn diện về đề xuất điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án và các thông tin, số liệu trong Hồ sơ điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án, các thông tin báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến thẩm định của Hội đồng thẩm định liên ngành và ý kiến của các bộ, cơ quan có liên quan.

Thực hiện trách nhiệm là cơ quan có thẩm quyền; tiếp thu ý kiến thẩm định của Hội đồng thẩm định liên ngành và ý kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tổ chức lập Báo cáo nghiên cứu khả thi điều chỉnh, thẩm định, phê duyệt điều chỉnh Dự án, tổ chức triển khai thực hiện Dự án theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm chất lượng, tiến độ, hiệu quả, không để xảy ra tiêu cực, lãng phí gây thất thoát tài sản, tiền vốn của Nhà nước; bảo đảm cân đối, bố trí đầy đủ, kịp thời vốn ngân sách tỉnh tham gia Dự án theo đúng quy định của pháp luật để triển khai Dự án theo đúng tiến độ.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện chức năng của cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư theo phương thức đối tác công tư và cơ quan thường trực Hội đồng thẩm định liên ngành, chịu trách nhiệm toàn diện về kết quả thẩm định của Hội đồng thẩm định liên ngành; kiểm tra, giám sát việc thực hiện Quyết định này, kịp thời báo cáo Thủ tướng Chính phủ nếu phát hiện các vấn đề không phù hợp với quy định của pháp luật, ảnh hưởng đến mục tiêu, hiệu quả của Dự án.

Bộ Giao thông vận tải phối hợp, hướng dẫn Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình và các cơ quan có liên quan trong quá trình triển khai Dự án. Các Bộ: Tài chính, Tài nguyên và Môi trường, Xây dựng, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn theo chức năng, nhiệm vụ, hướng dẫn Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình triển khai Dự án theo đúng quy định của pháp luật.

Hỗ trợ gạo cho 7 địa phương dịp Tết Nguyên đán và giáp hạt 

Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc vừa ký các Quyết định về việc xuất cấp gạo từ nguồn dự trữ quốc gia cho các địa phương dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ và giáp hạt đầu năm 2025. 

Cụ thể, tại Quyết định số 190/QĐ-TTg ngày 20/1/2025, Phó Thủ tướng giao Bộ Tài chính xuất cấp không thu tiền 2.519,91 tấn gạo từ nguồn dự trữ quốc gia cho các tỉnh: Hà Giang, Cao Bằng, Ninh Thuận, Đắk Lắk, Kon Tum để hỗ trợ cho Nhân dân dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ và giáp hạt đầu năm 2025, cụ thể:

Xuất cấp 2.472,855 tấn gạo dịp Tết Nguyên đán cho các tỉnh: Hà Giang 146,73 tấn gạo; Cao Bằng 654,795 tấn gạo; Ninh Thuận 735,09 tấn gạo; Đắk Lắk 878,1 tấn gạo; Kon Tum 58,14 tấn gạo.

Đồng thời, xuất cấp 47,055 tấn gạo hỗ trợ dịp giáp hạt đầu năm 2025 cho tỉnh Kon Tum.

Tại Quyết định số 191/QĐ-TTg ngày 20/1/2025, Phó Thủ tướng giao Bộ Tài chính xuất cấp không thu tiền 456,555 tấn gạo từ nguồn dự trữ quốc gia cho các tỉnh: Bắc Kạn, Đắk Nông để hỗ trợ cho Nhân dân dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ và giáp hạt đầu năm 2025.

Trong đó, xuất cấp 223,155 tấn gạo dịp Tết Nguyên đán cho tỉnh Bắc Kạn (80,46 tấn gạo); tỉnh Đắk Nông (142,695 tấn gạo).

Xuất cấp 233,4 tấn gạo hỗ trợ dịp giáp hạt đầu năm 2025 cho tỉnh Đắk Nông.

Phó Thủ tướng giao Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xử lý cụ thể theo quy định; theo chức năng, nhiệm vụ được giao chịu trách nhiệm về căn cứ, thông tin, số liệu báo cáo. UBND tỉnh: Hà Giang, Cao Bằng, Ninh Thuận, Đắk Lắk, Kon Tum, Bắc Kạn, Đắk Nông chịu trách nhiệm về tính chính xác của số liệu báo cáo và thực hiện hỗ trợ kịp thời, đúng đối tượng, đúng định mức theo quy định./.