CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

Tỉnh Quảng Ngãi

A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Sơ kết tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị

Sáng 15-10, Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số (Ban Chỉ đạo) tổ chức sơ kết tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị trong quý III/2025 và nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm cuối năm 2025. Tổng Bí thư Tô Lâm, Trưởng Ban Chỉ đạo chủ trì phiên họp.

Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì phiên họp. Ánh: Báo Nhân dân điện tử.

Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh U Huấn chủ trì tại điểm cầu tỉnh Quảng Ngãi. Cùng dự có các thành viên Ban Chỉ đạo của tỉnh về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; lãnh đạo các sở ngành liên quan.

Theo đánh giá của Ban Chỉ đạo Trung ương, Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị đã tạo đột phá về nhận thức và hành động. Đã định hình rõ quan điểm chuyển đổi mô hình phát triển đất nước, trọng tâm là xác lập mô hình tăng trưởng mới dựa trên khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; nâng cao quyết tâm chính trị, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội; niềm tin của cộng đồng và chuyên gia trong, ngoài nước được củng cố, khẳng định Nghị quyết đang đi đúng hướng.

Đồng chí U Huấn, Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh dự và chủ trì tại điểm cầu Quảng Ngãi

Quý III/2025, là giai đoạn có sự chuyển biến mạnh mẽ từ hoàn thiện thể chế, xây dựng kế hoạch sang triển khai thực thi và tạo ra kết quả cụ thể. Nhiều điểm nghẽn thể chế, cơ chế, chính sách được tháo gỡ, nguồn lực, hạ tầng, dữ liệu, nhân lực được tăng cường, tạo khí thế lan tỏa khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; tỷ trọng đóng góp của lĩnh vực này trong GDP đạt trên 16%, bước đầu thể hiện chuyển biến tích cực.

Về chuyển đổi số quốc gia, việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến (DVCTT) và các dịch vụ, tiện tích dần đi vào ổn định, thông suốt, phát huy hiệu quả rất tích cực về kinh tế, xã hội và niềm tin của Nhân dân. Hiện nay, tổng số TTHC cả nước (bao gồm khối Chính phủ và khối Đảng) là 5.340 TTHC. Cấp bộ, ngành trung ương 3.188 TTHC, trong đó 929 DVCTT cung cấp toàn trình, còn 2.259 DVCTT một phần; tỷ lệ hồ sơ trực tuyến đạt 54%. Cấp tỉnh có 2.044 TTHC, trong đó 567 DVCTT toàn trình, 1.003 DVCTT một phần, 474 thực hiện thủ công. Cấp xã có 426 TTHC, trong đó 200 DVCTT toàn trình, 226 DVCTT một phần; tỷ lệ hồ sơ trực tuyến đạt 75,7%.

Việc cung cấp DVCTT phục vụ chính quyền 2 cấp có hiệu quả thiết thực, mang lại lợi ích cho người dân, doanh nghiệp và cơ quan nhà nước. Cấp địa phương tiết kiệm được khoảng 4.800 tỷ đồng; cấp trung ương tiết kiệm được 840 tỷ đồng.

Về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, hiện Chính phủ đã phê duyệt 11 công nghệ chiến lược và đang tích cực triển khai. Các doanh nghiệp, viện, trường đã tiên phong, chủ động dựa vào nguồn lực của mình để nghiên cứu, phát triển nhiều sản phẩm công nghệ chiến lược ngay từ khi chưa có sự hỗ trợ của Nhà nước. Các doanh nghiệp hàng đầu (FPT, Zalo, VNPT, Viettel, CMC) đã tự chủ phát triển các mô hình ngôn ngữ lớn (LLM) tiếng Việt, đạt các chuẩn đánh giá quốc tế và có sản phẩm ứng dụng thực tế; nhiều doanh nghiệp (Hanet, CMC, MK Vision, Viettel, BKAV, Vconnex) đã làm chủ và thương mại hóa các dòng sản phẩm AI Camera xử lý tại biên. Các doanh nghiệp tiên phong (VinMotion, VinRobotics, Phenikaa-X) đã có sản phẩm Robot tự hành ở mức độ sẵn sàng công nghệ cao (TRL 6-7).

Viettel là doanh nghiệp duy nhất đã nghiên cứu, sản xuất và làm chủ toàn bộ thiết kế, tích hợp hệ thống 5G, đạt tỷ lệ giá trị Việt Nam trong sản phẩm là 65%; VNPT và PILA đã phát triển nền tảng NDATrace, làm chủ 100% công nghệ lõi chuỗi khối Layer-1 (NDAChain); Công ty 1Matrix đã hoàn thiện nguyên mẫu mạng blockchain đa chuỗi (VBSN) "Make in Vietnam" và nền tảng token hóa tài sản thực; nhiều doanh nghiệp (Real-time Robotics, Phenikaa-X, CT Group, Viettel) đã làm chủ công nghệ và có sản phẩm thiết bị bay không người lái (UAV) cạnh tranh quốc tế, phục vụ cả lưỡng dụng và quốc phòng.

Đến tháng 9/2025, cả nước có khoảng 950 doanh nghiệp KH&CN được cấp giấy chứng nhận (98,5% là doanh nghiệp tư nhân; chỉ 6,5% doanh nghiệp hình thành từ kết quả KH&CN có nguồn gốc ngân sách Nhà nước).

 

Điểm cầu Quảng Ngãi

Trong thời gian tới, yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia rất quan trọng và cấp bách. Đây là con đường bắt buộc để đất nước phát triển nhanh và bền vững. Quý IV/2025 là thời gian nước rút để hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết số 57-NQ/TW năm 2025, tạo nền tảng cho giai đoạn tới. Nghị quyết 66-NQ/TW của Bộ Chính trị đặt ra mục tiêu phải tháo gỡ hết các điểm nghẽn về mặt pháp luật, trong đó có lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Ban Chỉ đạo Trung ương yêu cầu các cơ quan trung ương và địa phương triển khai đồng bộ, quyết liệt các nhiệm vụ theo Nghị quyết 57-NQ/TW và các chương trình, kế hoạch liên quan; rà soát, đánh giá, hoàn thiện cơ chế, chính sách, bảo đảm tiến độ và hiệu quả thực chất; trong công tác chỉ đạo điều hành phải thường xuyên, kịp thời báo cáo kết quả thực hiện kèm minh chứng trên Hệ thống giám sát, đánh giá Nghị quyết 57, đồng thời khai thác dữ liệu phục vụ chỉ đạo, điều hành; việc phục vụ lãnh đạo chỉ đạo, điều hành về kinh tế - xã hội và triển khai khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số dựa trên dữ liệu theo thời gian thực.

Các bộ, cơ quan Trung ương và địa phương tập trung hoàn thành nhiệm vụ  về an toàn thông tin, an ninh mạng, bảo mật dữ liệu, tạo lập, kết nối, chia sẻ dữ liệu, chuyển đổi số liên thông trong hệ thống chính trị, bảo đảm hiệu quả, đúng tiến độ; rà soát, cấu trúc lại quy trình các DVCTT có tỷ lệ hồ sơ trực tuyến thấp, tỷ lệ phải bổ sung, sửa lỗi, bảo đảm người dân, doanh nghiệp “chỉ khai báo thông tin một lần”; triển khai các nền tảng, phần mềm dùng chung xuyên suốt từ trung ương đến địa phương; rà soát, bảo đảm trụ sở, thiết bị, nhân lực và hạ tầng mạng phục vụ giải quyết TTHC.

Thúc đẩy mô hình hợp tác 3 N (Nhà nước – Nhà trường – Nhà doanh nghiệp), khu công nghệ cao, đô thị thông minh; phát triển nguồn nhân lực; phát triển công nghệ chiến lược; bảo đảm kinh phí cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo.


Tác giả: PV