Quảng Ngãi khát vọng phát triển bền vững từ tài nguyên bản địa
Sau sáp nhập, tỉnh Quảng Ngãi có nền kinh tế đa dạng, bao gồm cả kinh tế công nghiệp, kinh tế biển, nông nghiệp công nghệ cao và du lịch. Khí hậu ở phía tây của tỉnh mát mẻ quanh năm, quỹ đất nông nghiệp lớn, hệ sinh thái đa dạng là nguồn tài nguyên vô giá đối với Quảng Ngãi hiện nay. Để phát huy những tiềm năng, lợi thế đó cần có giải pháp căn cơ, trong đó hoàn thiện vè quy hoạch, phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao,… có ý nghĩa quan trọng đối sự phát triển kinh tế, xã hội bền vững của tỉnh.
Tỉnh Quảng Ngãi có tổng diện tích tự nhiên 14.832,55 km2, trong đó diện tích quy hoạch cho lâm nghiệp là 1.065.379 ha. Diện tích đất có rừng lên tới 893.046 ha. đây là nguồn tài nguyên nhiều tiềm năng để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội như du lịch sinh thái, kinh tế rừng, dịch vụ môi trường rừng và đặc biệt là thị trường carbon rừng.
Ngành lâm nghiệp được các chuyên gia đánh giá là ngành duy nhất có lượng phát thải khí nhà kính âm, mở ra cơ hội lớn cho việc định lượng lưu trữ carbon, phát hành tín chỉ carbon và tham gia thị trường carbon trong nước và quốc tế. Tỉnh Quảng Ngãi có hai vùng khí hậu rõ nét: vùng tây Trường Sơn với địa hình núi cao (đỉnh Ngọc Linh 2.600m) thích nghi trồng Sâm Ngọc Linh, và vùng đông Trường Sơn với khí hậu nóng ẩm mưa mùa thuận lợi cho phát triển cây lâm nghiệp.
Qua điều tra sơ bộ, Quảng Ngãi có 853 loài cây dược liệu quý, hiếm, trong đó có 30 loài có nhu cầu lớn trên thị trường và khoảng 25 loài được trồng và sử dụng rộng rãi, có giá trị kinh tế cao, như Sâm Ngọc Linh, Đảng Sâm, Đương Quy, Ngũ Vị Tử... Đặc biệt, Sâm Ngọc Linh là loài cây đặc hữu, quý hiếm, được xem là “Quốc bảo” của Việt Nam với giá trị vượt trội so với các loài sâm khác. Quảng Ngãi là "thủ phủ" của Sâm Ngọc Linh nhờ điều kiện tự nhiên đặc biệt thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của cây sâm.
Khu vực phía tây của tỉnh, khí hậu mát mẻ quanh năm (18-20°C), độ ẩm cao, lượng mưa lớn, và hệ sinh thái rừng nguyên sinh ở vùng tây Trường Sơn đã tạo môi trường sống thuận lợi để phát triển Sâm Ngọc Linh và các dược liệu dưới tán rừng. Đồng thời, mở ra cơ hội để phát triển ngành nông nghiệp công nghệ cao. Đến hết năm 2024, toàn tỉnh có khoảng 9.798 ha dược liệu, với 2.922 ha Sâm Ngọc Linh, 1.211 ha Đảng sâm. Hình thành một số vùng trồng dược liệu tập trung, như vùng Sâm Ngọc Linh tại xã Măng Ri, xã Ngọc Linh và xã Xốp, vùng Sâm dây tại xã Tu Mơ Rông...
Các sản phẩm chủ lực như cà phê, rau, củ, quả và dược liệu đang được nhiều doanh nghiệp đầu tư, phát triển với nhiều mô hình sản xuất theo hướng nông nghiệp sinh thái, như mô hình sản xuất cà phê theo chuỗi giá trị có chứng nhận VietGAP (134 ha); mô hình sản xuất sầu riêng theo hướng hữu cơ (33 ha); mô hình trồng cây ăn trái tổng hợp sầu riêng, mít, ổi, mận,... theo tiêu chuẩn VietGAP (4 ha);…Các mô hình này đã mang lại giá trị sản phẩm tăng gấp 1,5 lần - 2 lần. Đến nay đã công nhận được 2 vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (Vùng sản xuất cà phê Đăk Hà và Vùng sản xuất rau củ quả Măng đen - Kon Plông); 7 doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Xác định được 10 vùng có tiềm năng hình thành vùng sản xuất tập trung, ứng dụng công nghệ cao. Tỉnh đang triển khai đánh giá, hỗ trợ sản xuất hơn 1.000 ha cà phê vối, 1.200 ha cây ăn quả và 50 ha rau, củ, quả; đặc biệt là 2.800 ha dược liệu tại xã Măng Ri…
Ngành du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng cũng đang đứng trước cơ hội để bứt phá. Khu vực miền núi có nhiều địa danh nổi tiếng như: núi Cà Đam, núi Ngọc Linh, Măng Đen, thác Trắng, cột mốc biên giới Việt Nam-Lào-Campuchia… mở ra nhiều cơ hội để phát triển du lịch. Việc phát triển du lịch nông nghiệp sẽ tạo ra thị trường tiêu thụ cho nông sản địa phương và đa dạng hóa nguồn thu nhập cho người dân nông thôn.
Cắt băng khánh thành Nhà máy chế biến nông sản và dược liệu Sao Mai
Bên cạnh lợi thế về tiềm năng kinh tế rừng, Quảng Ngãi có bờ biển dài 130 km cùng vùng đánh bắt rộng khoảng 11.000 km² cung cấp tiềm năng lớn trong khai thác hải sản. Hiện nay, toàn tỉnh có khoảng 4.900 tàu cá, trong đó có 3.026 tàu cá có chiều dài 15m trở lên khai thác ngoài khơi, với sản lượng khai thác hàng năm đạt 275.000 tấn. Ngoài ra, tỉnh cũng đang đẩy mạnh phát triển nuôi trồng thủy sản gần bờ với các loài có giá trị kinh tế cao, như cá mú, cá bớp, cá chim, cá chẽm, tôm, hàu, ốc hương…. Mục tiêu đến năm 2045 phấn đấu đưa kinh tế biển và vùng ven biển, hải đảo phát triển mạnh, giữ vị trí, vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế của tỉnh; hướng đến phát triển kinh tế thủy sản nhanh và bền vững, gắn với xử lý môi trường và du lịch biển và đảo.
Cơ sở hạ tầng cảng cá được đầu tư, nâng cấp như: Sa Huỳnh, Tịnh Kỳ, Lý Sơn, bao gồm hệ thống xử lý nước thải tự động để giảm ô nhiễm và đáp ứng yêu cầu chống khai thác IUU do Liên minh Châu Âu đưa ra. Dự kiến phát triển cảng nước sâu Dung Quất (có thể đón tàu đến 200.000 tấn), kết hợp KKT Dung Quất và VSIP Quảng Ngãi, tạo chuỗi logistics, chế biến thủy sản lớn, giúp liên kết vùng thủy sản với cảng biển, sân bay (Chu Lai, Lý Sơn), đường bộ và dịch vụ xuất khẩu hiệu quả hơn. Điều này không chỉ phục vụ xuất khẩu hải sản, mà còn mở ra cơ hội xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp từ khu vực miền núi. Quảng Ngãi có đặc khu Lý Sơn và nhiều bãi tắm đẹp như Mỹ Khê, Sa Huỳnh, Châu Tân... thuận lợi cho phát triển du lịch biển, đảo và tạo động lực cho các ngành dịch vụ, thương mại hoạt động, góp phần tiêu thụ các sản phẩm hải sản, nông sản địa phương, đặc biệt là sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao.
Cầu Phước Lộc, cây cầu thứ 7 bắc qua sông Trà Khúc, vừa được khánh thành đúng dịp kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Để khai thác thế mạnh, tiềm năng cho sự phát triển nhanh và bền vững, trước mắt, cần phải cập nhật, hoàn thiện quy hoạch tỉnh và các quy hoạch ngành liên quan. Cụ thể là tích hợp, điều chỉnh Quy hoạch tỉnh Quảng Ngãi mới trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, trong đó đảm bảo không gian phát triển, thu hút đầu tư các dự án trọng điểm có tính liên kết vùng trong nông nghiệp, nông thôn, làm tiền đề đẩy mạnh phát triển kinh tế rừng, biển.
Phát triển chuỗi giá trị nông - lâm - thủy sản tích hợp theo hướng nâng cao năng lực sản xuất. Tập trung đầu tư, khuyến khích ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp ở khu vực miền núi (cà phê, rau, củ, quả, dược liệu) và nuôi trồng, đánh bắt thủy sản ở khu vực biển. Hình thành và thúc đẩy phát triển các mô hình nông – lâm - ngư nghiệp kết hợp. Tận dụng tối đa phụ phẩm nông nghiệp để sản xuất phân bón hữu cơ và thức ăn chăn nuôi để giảm phát thải và ô nhiễm. Chế biến sâu và đa dạng hóa sản phẩm để nâng cao giá trị gia tăng của nông sản, như các sản phẩm chế biến từ sâm Ngọc Linh, cà phê, cây ăn quả, mía đường và các loại hải sản ngày càng đa dạng. Tạo ra các sản phẩm độc đáo mang bản sắc của Quảng Ngãi, như tỏi Lý Sơn, cà phê Măng Đen, sâm Ngọc Linh…
Tận dụng hệ thống cảng biển hiện có và quy hoạch mở rộng (Dung Quất, Sa Kỳ, Mỹ Á, Bến Đình…) để tối ưu hóa việc vận chuyển, xuất khẩu nông sản và thủy sản, kết nối thị trường miền núi với thị trường quốc tế thông qua đường biển. Quy hoạch vùng nuôi trồng thủy sản, bảo tồn biển và rừng đặc dụng tại các khu vực có hệ sinh thái đặc sắc như Lý Sơn, đầu nguồn sông Trà Khúc, Trà Bồng, Sê San. Thực hiện cơ chế chia sẻ lợi ích từ dịch vụ hệ sinh thái, như chi trả dịch vụ môi trường rừng gắn với phát triển dược liệu dưới tán rừng và dịch vụ hấp thụ cacbon.
Phát triển du lịch xanh, bền vững dựa trên kết nối rừng - biển, gắn với bảo tồn thiên nhiên. Xây dựng các sản phẩm du lịch liên vùng. Tạo ra các tour du lịch kết nối trải nghiệm du lịch sinh thái núi rừng (Măng Đen, thác Pa Sỹ…) với du lịch biển đảo (Lý Sơn, Mỹ Khê, Châu Tân…). Nhân rộng mô hình phát triển du lịch cộng đồng; du lịch trải nghiệm. Phát triển du lịch trang trại để du khách trải nghiệm, tìm hiểu quy trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp tại chỗ. Điều này không chỉ tăng thu nhập cho nông dân mà còn quảng bá sản phẩm địa phương. Xây dựng thương hiệu chung cho du lịch và nông sản Quảng Ngãi, nhấn mạnh sự kết hợp độc đáo giữa rừng và biển, bản sắc văn hóa đa dạng.
Đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
Tập trung huy động các nguồn lực để hoàn thiện hạ tầng kết nối và cải thiện môi trường đầu tư. Phát triển hạ tầng giao thông đồng bộ. Có chiến lược dài hạn trong việc đầu tư, nâng cấp và mở rộng các tuyến đường kết nối khu vực miền núi với đồng bằng và các cảng biển, tạo điều kiện thuận lợi cho lưu thông hàng hóa và phục vụ du khách.
Đẩy mạnh hợp tác công tư và liên kết vùng. Huy động nguồn lực xã hội thông qua các hình thức hợp tác công tư (PPP) để đầu tư vào vùng trồng dược liệu, hạ tầng cảng cá, cảng biển, bảo tồn sinh thái, du lịch... Tăng cường liên kết vùng với các tỉnh trong khu vực miền Trung - Tây Nguyên và tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia để mở rộng không gian phát triển kinh tế.
Tăng cường vai trò quản lý nhà nước và cơ chế chính sách đặc thù; phát huy tinh thần đoàn kết và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương cấp xã trong việc thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội và giải quyết thủ tục hành chính. Đồng thời, phát huy tinh thần đoàn kết, đồng lòng từ cấp ủy, chính quyền đến nhân dân, vì đây là yếu tố quyết định để vượt qua mọi khó khăn và thực hiện thành công các mục tiêu phát triển. Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, quản lý du lịch, kỹ thuật chế biến, logistics… nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh trong kỷ nguyên mới.